Bối cảnh Mạng lưới điệp báo Portland

HMS Osprey và Cục vũ khí dưới nước của Bộ Hải quân

Bản đồ các cơ sở Bộ Hải quân trên Đảo Portland, Dorset

Cuối thập niên 1950, quân đội Anh tự thành lập đơn vị nghiên cứu và phát triển dưới nước trên Đảo Portland, Dorset. Năm 1959 và 1960 diễn ra một loạt hoạt động hợp nhất các đơn vị chuyên môn, trong đó Cục vũ khí dưới nước (tiếng Anh: Underwater Weapons Establishment) cùng với Cục vũ khí và đối sách dưới nước (tiếng Anh: Underwater Countermeasures & Weapons Establishment) hợp lại thành Cục vũ khí dưới nước Bộ Hải quân (AUWE).[1][2][lower-alpha 1]

Thập niên 1950, Portland là nơi diễn ra phần lớn công việc phát triển chiếc HMS Dreadnought (S101). Hạ thủy năm 1960, Dreadnought là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên của Vương quốc Anh. Tàu trang bị sonar loại 2001, được sử gia hải quân Iain Ballantyne mô tả là "cực kỳ mạnh mẽ", vì năng lượng hạt nhân từ lò phản ứng có thể "phát hiện các mối đe dọa bằng cách sử dụng sonar chủ động ở phạm vi chưa từng có đối với cả tàu biển và tàu ngầm".[4] Khi đó, các chuyên gia nghiên cứu tại AUWE đang cải thiện khả năng tàng hình của tàu ngầm và phát triển một thế hệ tàu ngầm mới được trang bị tên lửa đạn đạo hạt nhân.[5]

HMS Osprey là cơ sở huấn luyện tác chiến chống tàu ngầm nằm ở mũi bắc Portland. Căn cứ đã nghiên cứu và phát triển các phương pháp và thiết bị phát hiện tàu ngầm.[6] Từ năm 1957 trở đi, các đơn vị trực thăng chống tàu ngầm cũng dùng Osprey làm căn cứ huấn luyện.[7]

Konon Molody (Gordon Lonsdale; 1922–1970)

Konon Trofimovich Molody (tiếng Nga: Ко́нон Трофи́мович Моло́дый) là một sĩ quan tình báo Liên Xô. Ông được đào tạo tại Mỹ từ năm 7 tuổi, ở đó 9 năm rồi trở về Nga năm 1938.[8] Năm 1940, ông được NKVD (tiền thân của KGB) tuyển mộ. Năm 1949, ông gia nhập tuyến tình báo chính trị và được huấn luyện thành đặc vụ bất hợp pháp — điệp viên không được miễn trừ ngoại giao hoạt động bí mật ở nước ngoài.[9][10][11][lower-alpha 2] Năm 1954, ông dùng danh tính Gordon Lonsdale, quốc tịch Canada để từ Nga đến Canada làm việc bán hàng.[lower-alpha 3] Tháng 2 năm 1955, Lonsdale đến Hoa Kỳ, liên lạc với đặc vụ Rudolf Abel rồi lên đường sang Anh. Ông đăng ký khóa tiếng Trung tại Trường Nghiên cứu Phương Đông & Châu Phi. Năm 1956, nhằm che đậy thân phận điệp viên, ông trở thành giám đốc xuất khẩu của một doanh nghiệp cho thuê máy hát và máy bán hàng tự động. Với vị trí chức danh này, ông thực hiện những chuyến đi tới nội lục châu Âu, thậm chí có lần tới Ba Lan. Ông có thể gặp mặt các sĩ quan KGB trong thời gian tạm rời nước Anh này.[13][14]

Lona và Morris Cohen (Helen và Peter Kroger; 1913–1992 và 1910–1995)

Morris Cohen vào thập niên 1930
Chân dung Lona Cohen in trên tem Nga năm 1998

LonaMorris Cohen là những người cộng sản Mỹ. Morris từng chiến đấu trong Lữ đoàn Quốc tế tham gia Nội chiến Tây Ban Nha. Sau khi bị thương ở chân, ông được tình báo Liên Xô tuyển mộ. Người thu nhận Morris có thể là đại tá NKVD Alexander Orlov.[15][16] Tháng 11 năm 1938, ông trở lại Hoa Kỳ. Ông gặp Lona (nhũ danh Petka) và hai người kết hôn vào tháng 7 năm 1941. Trước đó, Lona không hề biết Morris là điệp viên Liên Xô, nhưng được chồng tiết lộ ngay sau đám cưới.[17] Lona đảm trách việc vận chuyển tài liệu mật từ Theodore HallSaville Sax tại Dự án Manhattan tới lãnh sự quán Liên Xô ở New York. Một trong những tài liệu mà Lona từng chuyển là sơ đồ hoàn chỉnh về bom nguyên tử của Hoa Kỳ. Moskva nhận được thông tin 12 ngày trước khi Hoa Kỳ thử nghiệm vũ khí. Dựa trên thông tin tình báo nhận được, Liên Xô đã có thể thử nghiệm vũ khí hạt nhân đầu tiên bốn năm sau đó.[15][18]

Khi dự án giải mã Venona bắt đầu phanh phui các điệp viên Nga hoạt động ở Mỹ, vợ chồng Cohen nhận ra nguy cơ bị lộ nên đào thoát vào tháng 6 năm 1950, đầu tiên là đến Moskva rồi tới Ba Lan.[19][20] Năm 1954, họ chuyển đến Cranley Drive, Ruislip, ngay ngoại ô Luân Đôn, dưới vỏ bọc người New Zealand tên là Helen và Peter Kroger. Peter mở một tiệm sách cổ trên đại lộ Strand.[21][22] Sau khi ổn định, nhà Kroger bắt liên lạc với Lonsdale. Lonsdale đã hỗ trợ hai vợ chồng đào đống gạch vụn dưới hầm bếp, giấu điện đài để liên lạc với Moskva.[23]

Harry Houghton (1905–1985) và Ethel Gee (1914–1984)

Năm 1945, Harry Houghton vinh dự giải ngũ khỏi Hải quân Hoàng gia với cấp bậc sĩ quan quân kỷ (tiếng Anh: master-at-arms - MAA) và chuyển sang làm văn thư tại HMS Osprey. Đến năm 1951, ông tham gia tùy viên hải quân của đại sứ quán Anh tại Warszawa, Ba Lan, mang theo vợ là Peggy. Ông rơi vào lưới tình với một phụ nữ Ba Lan tên là Katarina mà không biết rằng đó là nhân viên cơ quan tình báo Ba Lan. Ông bắt đầu rượu chè tiệc tùng liên miên và hết tiền. Katarina đề nghị Harry tham mối cà phê chợ đen, đặt hàng từ Anh và bán giá cao cho người Ba Lan.[24] Hôn nhân rạn nứt nghiêm trọng, Houghton đánh Peggy khi vợ chồng thường xuyên cãi vã, nhất là lúc Houghton say. Theo Peggy, Houghton nhiều lần dọa giết mình, có lần quăng bà vào tường, dùng điếu thuốc đang cháy rụi vào người hay một lần còn định xô bà xuống từ vách đá.[25][26][27]

Theo MI5 và KGB, Houghton thực hiện động thái đầu tiên làm nội gián vào năm 1951 khi viết cho Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ba Lan đề nghị bán tin tình báo lấy tiền.[11][28] Khi trao đổi với một sĩ quan tình báo Ba Lan, Houghton giải thích mong muốn của mình "Nhà cầm quyền Anh hiện tại đã bán nước cho Mỹ và biến thành thuộc địa của Mỹ".[29] Houghton nhận mật danh Miron và bắt đầu gửi các tài liệu nhạy cảm cho đầu mối phụ trách. Tháng 5 năm 1952, ông chuyển 715 tài liệu; tăng lên 1.167 vào tháng 8, bao gồm thông tin chi tiết về một điệp viên Anh ở Murmansk và cơ cấu Tình báo Hải quân Anh.[29] Houghton say sưa rượu chè khiến đại sứ quán lo ngại và điều chuyển về Anh vào tháng 10 năm 1952, chỉ sau 15 tháng thay vì ba năm công tác. Houghton đã nhận một công việc tại AUWE khi trở về.[30][31] Trong tự truyện, ông tuyên bố chỉ bị tống tiền vì tội làm gián điệp khi trở về Anh, với những lời đe dọa chống lại Katarina nếu không chịu hợp tác.[32]

Ethel Gee mang biệt danh Bunty, sống ở Portland với mẹ già và cô chú. Tháng 10 năm 1950, bà làm thư ký hồ sơ tại AUWE, được nắm các tài liệu tuyệt mật. Bà có quyền truy cập vào nơi có bản vẽ mật của những dự án thử nghiệm hoặc nguyên mẫu đang được tiến hành. Bà là người độc thân, không có bạn thân và có cuộc sống bình lặng khi gặp Houghton vào khoảng đầu đến giữa thập niên 1950.[33][34] Houghton mô tả Gee trong hồi ký là "triệu phụ nữ có một".[35] Khi Houghton thông báo hôn nhân mình đang đổ vỡ, hai người từ tình bạn trở thành tình nhân của nhau.[36]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Mạng lưới điệp báo Portland http://www.oup.com/oxforddnb/info/freeodnb/librari... //doi.org/10.1093%2Fref:odnb%2F40700 //www.worldcat.org/oclc/1097468571 //www.worldcat.org/oclc/1647771 //www.worldcat.org/oclc/1926529 //www.worldcat.org/oclc/955116 http://news.bbc.co.uk/onthisday/hi/dates/stories/m... https://books.google.com/books?id=1Jc9wBsImOIC&pg=... https://books.google.com/books?id=1Jc9wBsImOIC&pg=... https://books.google.com/books?id=99aLDwAAQBAJ&pg=...